Tuyên truyền giáo dục - Nữ công
TÀI LIỆU TUYỂN TRUYỀN Kỷ niệm 65 năm Ngày ký Hiệp định Gio-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam (20/7/1954 - 20/7/2019)
Kỷ niệm 65 năm Ngày ký Hiệp định Gio-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam (20/7/1954 - 20/7/2019) (Ban hành kèm theo Công văn số 959 -CV/BTGTU, ngày 0Š/7/2019 của Ban Tuyên giáo Tỉnh uy)
I. BỐI CẢNH QUỐC TẺ VÀ TRONG NƯỚC DẪN TỚI HỘI NGHỊ GIƠ-NE-
VƠ 1954 VÉ HÒA BÌNH Ở VIỆT NAM, ĐÔNG DƯƠNG
1. Bồi cảnh quốc tế
Bước sang năm 1953, tình hình thế giới phát triển ngày càng thuận lợi cho
cuộc chiến tranh của nhân dân ta. Lực lượng của phe hòa bình - dân chủ thế giới
ngày càng lớn mạnh. Liên Xô, Trung Quốc liên tiếp thu được nhiều thành tích vĩ
đại trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Đảng Cộng sản Italia và Pháp
đã giành thăng lợi trong cuộc tuyển cử. Các phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động trên khắp thế giới ngày càng phát triển.
Việt Nam trở thành một điểm nóng ở Đông Nam Á và khu vực Thái Bình
Dương. Cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã làm cho Pháp bị hao tốn rất lớn (từ năm
1946 đến năm 1953 tốn hơn 3.000 tỷ Frăng). Trên chiến trường Việt Nam, lực
lượng quân Pháp bị tiêu hao ngày càng nhiễu. Tính đến tháng 11/1952, gần 32 vạn
lính Pháp bị tiêu diệt, thế bị động của quân Pháp ngày càng lộ rõ. Tháng 10/1953,
Quốc hội Pháp có một cuộc thảo luận về Đông Dương, nhiều nghị sĩ đòi Chính phủ
Pháp phải đàm phán ngay với phía Việt Nam để đi đến kết thúc chiến tranh.
Chiến tranh lạnh đi đến đỉnh cao, thế giới xuất hiện xu thế các nước lớn bắt
đầu đi vào hòa hoãn, chủ trương giải quyết hòa bình các cuộc chiến tranh khu vực.
Ngày 08/12/1953, trong Hội nghị Bermudes, 3 nước Anh, Pháp, Mỹ thỏa thuận
cùng hành động sớm để giải quyết vẫn đề Đông Dương: Liên Xô đề nghị triệu tập
Hội nghị bốn nước gồm các nước: Liên Xô, Anh, Pháp, Mỹ tại Berlin. Ngày
18/02/1954, Hội nghị bỗn nước đã thỏa thuận triệu tập Hội nghị quốc tế tại Giơ-ne-
vơ có đại diện của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tham dự để bàn giải pháp
chính trị cho vẫn đề Triều Tiên và giải quyết vấn đề chiến tranh Đông Dương.
Điều này đã mở ra một con đường mới cho khả năng kết thúc chiến tranh ở Việt
Nam, Đông Dương thông qua biện pháp thương lượng hòa bình.
Về phía Pháp, ngày 03/12/1953, Chính phủ Pháp tuyên bố muốn biết lập
trường của Việt Nam và bày tỏ ý sẵn sàng xem xét việc lập lại hòa bình, đảm bảo
độc lập cho các quốc gia liên kết; đồng thời Pháp đồng ý triệu tập Hội nghị quốc tế
Giơ-ne-vơ. Ngày 05/3/1954, Quốc hội Pháp mở phiên họp đặc biệt về vấn đề Đông
Dương, thông qua nghị quyết hoan nghênh việc triệu tập Hội nghị quốc tế Giơ-ne-vơ nhằm đảm bảo hòa bình và an ninh của quốc gia liên kết trong khối Liên hiệp
Pháp. _
Hiệp định đình chiến ở Triều Tiên được ký kết, Việt Nam thăng lợi trong
chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 07/5/1954 và sự chuyển hóa trong Chính phủ và
Quốc hội Pháp đã thúc đây việc khởi động quá trình các nước lớn tìm cách giải
quyêt vân đề Đông Dương băng thương lượng.
2. Tình hình trong nước
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hỗ Chí Minh, cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân Việt Nam đã bước vào giai đoạn
quyết định. Từ Thu - Đông năm 1950 trở đi, quân và dân ta càng chiến đấu càng
trưởng thành và lớn mạnh; chiến tranh du kích phát triển mạnh; quân đội ngày
càng trưởng thành cả về số lượng và chất lượng. Nhờ có đường lỗi chiến tranh
nhân dân, quân và dân ta từ thế bị động chuyền dần sang thế chủ động tiến công và
liên tiếp giành thắng lợi.
Trong bối cảnh quốc tế (sau Hiệp định tháng 7/1953), Đảng ta nhận định:
“Hiện nay đường lỗi chung của phe hòa bình trên thế giới là dùng mọi cách để
gây lại và tăng cường hòa hoãn quốc tế, giữ gìn và củng có hòa bình, hữu nghị
giữa các dán (tộc ”. Chính phủ và nhần dân ta quyết định mở mặt trận đâu tranh
ngoại giao, đặc biệt là những hoạt động nhằm tăng cường đoàn kết chiến đấu giữa
các lực lượng kháng chiến của hai nước anh em trên bán đảo Đông Dương. Ngày
15/3/1954, Báo cáo trước Chính phủ, Phó Thủ tướng Phạm Văn Đông nều rõ:
“Phương chảm đấu tranh của ta là vừa đánh, vừa nói chuyện. Phải chủ động cả
hai mặt nhưng yếu tô quyết định vẫn là đấu tranh quân sự. Ta càng đánh càng
thắng, nói chuyện càng thuận lợi... Phải tích cực chủ động cả về quán sự lấn ngoại
giao...
Trước tình hình thể giới xuất hiện xu thế các nước lớn bắt đầu đi vào hòa
hoãn, chủ trương giải quyết hòa bình các cuộc chiến tranh khu vực, trong “Lời kêu
gọi chiến sĩ và đông bào cả nước ” ngày 19/12/1953, nhân kỷ niệm 07 năm Ngày
Toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hỗ Chí Minh đã nêu rõ lập trường, sẵn sàng
thương lượng để giải quyết hòa bình về vẫn đề Việt Nam: “Nếu Chính phủ Pháp
muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và muốn giải quyết
ván đề về Việt Nam theo lỗi hòa bình, thì nhân dân và Chính phủ nưóc Việt Nam
Dán chủ Cộng hòa cũng sẵn sàng nói chuyện ”.
Thiện chí hòa bình của Đảng, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã mở ra một cơ hội đi đến chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương.
Đầu tháng 12/1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng chủ trương mở chiến dịch
đánh bại địch ở Điện Biên Phủ. Chủ tịch Hỗ Chí Minh chỉ thị: “Chiến địch này là
một chiến dịch rất quan trọng không nHững về quản sự mà cả về chính trị, không
những đổi với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn
Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được `.
Ngày 13/3/1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu. Trải qua ba đợt chiến đấu
gay go và gian khổ, liên tục trong 56 ngày đêm, ngày 07/5/1954, Chiến dịch Điện
Biên Phủ toàn thắng, kết thúc oanh liệt cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân
1953 - 1954 của quân và dân Việt Nam; làm phá sản kế hoạch Navarre của địch;
làm thất bại mưu đồ giảnh thế mạnh về quân sự hòng xoay chuyên cục diện chiến
tranh trên chiến trường Đông Dương của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Chiến
thắng Điện Biên Phủ đã làm rung chuyền nội bộ xã hội nước Pháp, thúc đây phong
trào chống chiến tranh của nhân dân Pháp lên cao trào, tạo phân hóa trong chính
giới Pháp, thúc đây mạnh mẽ lực lượng chủ hòa trong chính giới Pháp, đặc biệt
trong Quốc hội Pháp. Chiến thắng Điện Biên Phủ tăng thêm sự đồng tình, ủng hộ
của nhân dân Pháp và nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới đối với sự nghiệp
đâu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam.
Chiến thăng Điện Biên Phủ đã dẫn đến Hội nghị Giơ-ne-vơ, tạo thế vững
vàng cho đoàn Việt Nam bước vào Hội nghị Giơ-ne-vơ với thế thắng, thế mạnh
nhờ có thăng lợi quân sự trên khắp chiến trường Việt Nam.
II. QUÁ TRÌNH CHUẢN BỊ THAM GIA VÀ DIỄN BIẾN HỘI NGHỊ
GIƠ-NE-VƠ
1. Quá trình chuẩn bị tham gia Hội nghị Giơ-ne-vơ của Việt Nam Dân
chủ Công hòa
Tháng 3/1954, Chính phủ Việt Nam đã chuẩn bị thành lập Đoàn đi dự Hội
nghị Giơ-ne-vơ về hòa bình ở Việt Nam, Đông Dương sau khi nhận lời mời của
Liên Xô và Trung Quốc. Lúc đầu, Chính phủ chủ trương cử Bộ trưởng Ngoại giao
Hoàng Minh Giám dẫn đầu Đoàn đàm phán nhưng khi cân nhắc yêu cầu và mục
tiêu đặt ra, Chính Phủ đã quyết định cử Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm
Trưởng Đoàn Chính phủ Việt Nam dự Hội nghị Giơ-ne-vơ. Tham gia còn có: Thứ
trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu, Bộ trưởng Bộ Công thương Phan Anh, Thứ
trưởng Bộ Tư pháp Trân Công Tường, Cục trưởng Cục tác chiến Hà Văn Lâu,
Đặng Tích và nhiều chuyên viên...
2. Diễn biến Hội nghị Giơ-ne-vơ
_ - Hội nghị Giơ-ne-vơ 1954 về hòa bình ở Việt Nam, Đông Dương được tô
chức theo quyết nghị của Hội nghị ngoại trưởng bốn nước lớn gồm Liên Xô, Mỹ,
Anh, Pháp tại Berlin vào tháng 02/1954 để giải quyết vẫn đề Triều Tiên và chiến
tranh tại Đông Dương.
- Hội nghị khai mạc vào ngày 08/5/1954 và kết thúc vào ngày 21/7/1954.
- Thành phân tham dự Hội nghị: Có 9 bên tham dự (không phải là 9 quốc
gia): Liên Xô, Trung Quốc, Mỹ, Anh, Pháp, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Quốc gia Việt Nam, Vương Quốc Lào và Vương Quốc Campuchia. Đại diện lực lượng
kháng chiên Pathet Lào và Khmer Itsarak tuy đã có mặt ở Giơ-ne-vơ cùng với
Đoàn ta nhưng không được các đoàn phương Tây chấp nhận tham dự Hội nghị.
- Các nước đến dự Hội nghị Giơ-ne-vơ về hòa bình ở Việt Nam, Đông
Dương có những lợi ích, chiến lược và với những mục tiêu khác nhau.
- Hội nghị Glơ-ne-vơ trải qua 75 ngày với 31 phiên họp, trong đó có 7 phiên
toàn thể và 24 phiên họp cấp Trưởng đoàn. Có thể chia Hội nghị thành 3 giai đoạn:
* Giai đoạn 1 (từ 06/5/1954 - 19/6/1954):
- Ngoài việc trao đôi chương trình nghị sự, các Đoàn trình bày lập trường của
mình về giải pháp cho vẫn đề Việt Nam và Đông Dương.
- Đoàn Pháp (Ngoại trưởng Bidault) phát biểu chỉ giải quyết vấn đề quân sự,
không đề cập vấn đề chính trị và tách vấn đề Lào, Campuchia ra khỏi vẫn đề Việt
Nam, được Mỹ ủng hộ.
- Đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đẳng dẫn
đầu yêu cầu phải có đại diện kháng chiến Lào và Campuchia tham dự. Ngày
10/5/1954, đồng chí Phạm Văn Đồng phát biểu, đưa ra lập trường § điểm của Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa là giải quyết đồng thời cả hai vẫn đề quân sự và chính trị,
giải quyết đồng thời cả ba vấn đề Việt Nam, Lào, Campuchia; yêu câu Pháp phải
thừa nhận quyên dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, Campuchia, Lào. Quân
đội nước ngoài phải rút khỏi ba nước Đông Dương là cơ sở quan trọng nhất cho
chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Trung Quốc, Liên Xô Ủng
hộ lập trường của Việt Nam.
- lrưởng đoàn Trung Quốc Chu Ấn Lai đưa ra hai điều kiện để lập lại hòa
bình ở Đông Dương: Pháp chấm dứt chiến tranh thực dân, Hoa Kỳ chấm dứt can
thiệp vào Đông Dương.
- Trưởng đoàn Liên Xô - Bộ trưởng Ngoại giao Mô-lô-tốp đề nghị lập Ủy ban
giám sát quốc tế gồm các nước trung lập. Tại phiên họp lần thứ 4, ông Mô-lô-tốp
đề nghị lấy hai phương án của Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa làm cơ sở
thảo luận.
- Sau 4 phiên họp rộng, Chủ tịch Hội nghị, Ngoại trưởng Anh Eden yêu cầu
họp hẹp. Mô-lô-tốp đề nghị vẫn đề quân sự, chính trị và vấn đề ba nước sẽ bàn
song song. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Liên Xô, Trung Quốc đồng ý. Anh và
Pháp tán thành, Mỹ đành phải chấp nhận.
- Ngày 25/5/1954, trong phiên họp hẹp, đồng chí Phạm Văn Đông đưa ra 2
nguyên tắc cho vấn đề đình chiến: (1) Ngừng bắn hoàn toàn trên toàn cõi Đông
Dương: (2) Điều chỉnh vùng trong mỗi nước, trong từng chiến trường trên cơ sở
đất đổi đất để mỗi bên có những vùng hoàn chỉnh tương đối rộng lớn thuận lợi choquản lý hành chính và hoạt động kinh tế. Đại diện các bộ tư lệnh có liên quan
nghiên cứu tại chỗ những biện pháp ngừng băn để chuyền tới Hội nghị xem xét và
thông qua.
- Ngày 27/5/1954, Đoàn Pháp đồng ý lẫy đề nghị của Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa làm cơ sở thảo luận về đề nghị đại diện của hai Bộ Tư lệnh gặp nhau ở
Giơ-ne-vơ để nghiên cứu việc chia ranh giới những khu vực tập trung quân ở Đông
Dương. Cùng ngày, Đoàn Trung Quốc đưa ra 6 điểm về vấn để quân sự, như:
ngừng bắn hoàn toàn và cùng một lúc ở ba nước Đông Dương, thành lập Ủy ban
kiêm soát quốc tế gồm các nước trung lập nhưng chưa đề cập tới mặt chính trị của
giải pháp.
- Ngày 29/5/1954, sau 4 phiên họp toàn thể và 8 phiên họp cấp Trưởng đoàn,
Hội nghị Giơ- ne-vơ ra quyết định: (1) Ngừng băn toàn diện và đồng thời; (2) Đại
diện hai Bộ tư lệnh gặp nhau ở G1ơ-ne-vơ để bàn về bỗ trí lực lượng theo thỏa
thuận đình chiến bắt đầu bằng phân vùng tập kết quân đội ở Việt Nam.
- Ngày 12/6/1954, Nội các Bidault bị Quốc hội Pháp đánh đổ. Ngày
29/6/1954, Chính phủ Mendes France lên cầm quyên, hứa với Quốc hội Pháp trong
vòng một tháng sẽ giải quyết xong vấn để lập lại hòa bình ở Đông Dương. Đây là
sự kiện quan trọng góp phân phá vỡ bế tắc, thúc đây đàm phán tiến triển.
* Giai đoạn 2 (f0 20/6/1954 - 10/7/1954): -
- Trong giai đoạn này, hầu hết Trưởng đoàn các nước về báo cáo, chỉ có
Trưởng đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng ở lại. Các quyền
Trưởng đoàn tô chức các cuộc họp hẹp và họp tiểu ban quân sự Việt - Pháp. Các
cuộc họp chủ yếu bàn các vẫn đề tập kết, chuyền quân, thả tù binh, đi lại giữa hai
miễn.
- Ngày 09/7/1954, tại cuộc họp tiểu ban quân sự, vẫn đề phân chia giới tuyến
giữa Việt Nam và Pháp vẫn chưa được thống nhất.
Như vậy các cuộc họp hẹp ở Giơ-ne-vơ trong giai đoạn này không có tiễn
triển gì đáng kể. _
* Giai đoạn 3 (từ ngày II - 21/7/1954) - Nối lại các cuộc đàm phán cấp Bộ tuởng:
- 10 ngày cuỗi của Hội nghị Giơ-ne-vơ đã diễn ra nhiều cuộc gặp gỡ, trao đồi
tay đôi, tay ba hoặc nhiêu bên giữa các Trưởng đoàn. Các phiên họp chủ yếu thông -
qua các văn kiện, kế cả các điều khoản thi hành Hiệp định. Cuối cùng là phiên họp
toàn thê bề mạc Hội nghị.
- Đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Đoàn Pháp đàm phán rất gay go về
phân chia vĩ tuyến; về thời hạn tổ chức tông tuyển cử và các điều khác của Hiệp
định. Vào 24 giờ ngày 20/7/1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở ViệtNam được ký kết. Sau đó, Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Lào, Campuchia cũng
được ký.
- Ngày 21/7/1954, Hội nghị Giơ-ne-vơ về hòa bình ở Việt Nam, Lào, Cam
puchia kêt thúc. Hội nghị thông qua các văn kiện.
II. KẾT QUÁ CỦA HỘI NGHỊ GIƠ-NE-VƠ VÀ Ý NGHĨA CỦA HIỆP
ĐỊNH GIƠ-NE-VƠ VẺ ĐÌNH CHÍ CHIẾN SỰ Ở VIỆT NAM
1. Kết quả Hội nghị Gio-ne-vơ 1954 về hòa bình ở Việt Nam, Đông
Dương _
Trải qua 75 ngày đàm phán gay go, căng thăng, với 31 phiên họp, cùng rất
nhiêu cuộc gặp, tiêp xúc song phương và đa phương bên lê Hội nghị, cuỗi cùng các
bên tham gia Hội nghị, trừ Mỹ, đã thỏa thuận và ký kêt được các văn bản.
Kết quả của Hội nghị Ciơ-ne-vơ 1254 về hòa bình ở Việt Nam, Đông Dương
không đáp ứng được tât cả các yêu câu và mục tiêu của Trung ương Đảng vả
Chính phủ đê ra lúc ban đâu như phân chia giới tuyên, thời hạn tông tuyên cử, vân
đề vùng tập kêt của các lực lượng kháng chiên Lào Itsala và Khmer Itsarak...
nhưng nó phản ánh được tương quan lực lượng giữa Việt Nam và đối phương
trong hoàn cảnh lúc đó, cả trên chiên trường lần trên bàn đàm phán.
a. Các văn bản được ký kết tại Hội nghị
- Ba Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào, Campuchia.
- Một bản tuyên bỗ cuỗi cùng của Hội nghị.
- Hai bản tuyên bố riêng của Đoàn Mỹ và Đoàn Pháp ngày 21/7/1954.
- Các công hàm trao đổi giữa Phó Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng và
Thủ tướng Pháp Mendes France.
b. Những thỏa thuận đã đạt được
* Thỏa thuận chung cho ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia:
- Công nhận và tôn trọng các quyền cơ bản của nhân dân ba nước Đông
Dương: độc lập, chủ quyên, thông nhật và toàn vẹn lãnh thô của mỗi nước, không
can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi nước.
- Đình chỉ chiến sự trên toàn cõi Đông Dương.
- Pháp rút quân khỏi lãnh thỗ ba nước. Quân tình nguyện Việt Nam rút khỏi
Lào và Campuchla.
- Không có căn cứ nước ngoài và không liên minh quân sự với nước ngoài.
- Tổng tuyến cử ở mỗi nước.
- Không trả thù những người hợp tác với đối phương.
- Trao trả tù binh và người bị giam giIữ.
- Thành lập Ủy ban liên hợp kiêm soát và giám sát quốc tế.
* Thỏa thuận riêng với môi nước, trong đó có các Hiệp định liên quan đến
Việt Nam, gồm 4 nội dung chính:
- Những điều khoản về đình chỉ chiến sự và lập lại hòa bình: ngừng băn, tập
kết, chuyển quân được hai bên thực hiện trong thời hạn 300 ngày; chuyền giao khu
vực, trao trả tủ binh và thường dân bị giam giữ, đôi vùng, vẫn đề mồ mả quân nhân
hai bên tham chiến.
- Những điều khoản về duy trì và củng cố hòa bình ở Việt Nam: Lập giới
tuyến quân sự tạm thời ở vĩ tuyến 17 và khu phi quân sự (sông Bến Hải), vĩ tuyến
17 là giới tuyến quân sự tạm thời, không coi là ranh giới chính trị hay lãnh thô,
cầm tăng viện nhân viên quân sự, bộ đội, vũ khí và dụng cụ chiến tranh khác vào
Việt Nam, cắm xây dựng căn cứ quân sự mới, cắm hai miền không được gia nhập
liên minh quân sự nào, cầm sử dụng mỗi miễn để phục vụ một chính sách quân sự
nảo.
- Những điều khoản chính trị: Vấn đề tổng tuyển cử để thống nhất đất nước,
Hiệp thương hai miễn vào tháng 7/1955, tổng tuyên cử vào tháng 7/1956, tự đo
chọn vùng sinh sống trong khi chờ đợi, không khủng bố, trả thù hay phân biệt đối
xử với những người đã hợp tác với đối phương trong thời gian chiến tranh.
- Những điều khoản quy định việc tổ chức thi hành Hiệp định: Ủy ban kiểm
soát liên hợp, Ủy ban giám sát quốc tế trung lập.
2. Nguyên nhân thắng lợi trong việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình
chỉ chiến sự ở Việt Nam
- Thắng lợi trong việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt
Nam là thắng lợi vẻ vang của nền ngoại ø1ao cách mạng non trẻ của Nhà nước dân
chủ nhân dân đâu tiên ở Đông Nam Á - Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Nguyên nhân hàng đầu quyết định thắng lợi cơ bản trên là do đường lối
chính trị, đường lỗi quân sự và đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh, đặc biệt quân đội và nhân dân ta đã đoàn kết nhất trí, chiến đấu anh
dũng suốt 9 năm, giành thắng lợi của cuộc tông tiến công chiến lược Đông - Xuân
1953 - 1954 với đỉnh cao là chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ, buộc bọn để quốc,
thực dân phải ngỗồi vào bàn Hội nghị, cam kết chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa
bình ở Việt Nam, Lào và Campuchia.
- Sức mạnh khôi đại đoàn kết toàn dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta đã biết phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết
dân tộc, kết hợp sức mạnh quân sự, chính trị và sức mạnh ngoại giao, tạo nên sức
mạnh tổng hợp và thế chủ động trên bàn đàm phán, ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ.
- Cuộc đầu tranh của nhân dân ta là chính nghĩa, được bạn bè quốc tế và các
lực lượng yêu chuộng hòa bình trên thế giới ủng hộ, giúp đỡ, cổ vũ, góp phân tạo
nên sức mạnh của thời đại cho thắng lợi của Hội nghị Giơ-ne-vơ 1954.
- Đội ngũ cán bộ ngoại giao có bản lĩnh chính trị vững vàng, ý thức được lợi
ích và mục tiêu của dân tộc, có hiểu biết sâu sắc và trình độ học vấn uyên bác, linh
hoạt, chủ động, sáng tạo, tự chủ trên bàn đàm phán, biết phân tích đánh giá tình
hình chính xác và đã đạt được kết quả to lớn trong hoàn cảnh lịch sử lúc đó.
3. ÝY nghĩa Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam
- Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam đã chấm dứt ách đô
hộ kéo dài hàng thế kỷ của thực dân Pháp ở Việt Nam và trên toàn cõi Đông
Dương. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, xây dựng Chủ nghĩa xã hội, trở thành hậu:
phương vững mạnh cho nhân dân miễn Nam tiếp tục cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc, thông nhất Tô quốc sau này.
- Hiệp định này là một giải pháp đồng bộ về chính trị và quân sự nhằm kết
thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Nó vượt ra ngoài ý đồ ban đầu của
các nước lớn định giới hạn Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam,
Lào, Campuchia trong khuôn khô một Hiệp định ngừng bắn đơn thuần, kiểu Triều
Tiên. Về mặt chính trị và pháp lý, các nước tham gia Hội nghị công nhận và cam
kết tôn trọng các quyên dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, Lào và Campuchia
là chủ quyên, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thô. _
- Hiệp định đã ghi nhận thắng lợi to lớn có tính bước ngoặt của cuộc đâu tranh
kiên cường của nhân dân Việt Nam vì độc lập, tự do của dân tộc. Nó xác nhận trên
phạm vi quốc tế sự thất bại của cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn của một đề
quốc hủng mạnh, đánh dẫu sự mở đầu cho sự Sụp đồ hoàn toàn của hệ thống thuộc
địa của chủ nghĩa thực dân cũ trên quy mô toàn cân, góp phần quan trọng cô vũ
cuộc đâu tranh giải phóng của dân tộc thuộc địa.
- Hiệp định là một thăng lợi ngoại giao quan trọng trong cuộc đàm phán quốc
tế đa phương đâu tiên mà Việt Nam tham gia.
- Hiệp định đã tạo nên một cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh sau này đặc biệt
là trong cuộc đàm phán với Mỹ tại Hội nghị Paris về Việt Nam.
IV. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ QUÁ TRÌNH ĐÀM PHÁN,
KÝ KẾT HIỆP ĐỊNH GIƠ-NE-VƠ VẺ ĐÌNH CHÍ CHIẾN SỰ Ở VIỆT NAM
1. Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam đã đi vào lịch sử,
cùng với Hiệp định sơ bộ 06/3/1946 và Hiệp định Paris 1973, trở thành 3 văn kiện
ngoại giao quan trọng nhất trong hai cuộc kháng chiên chống Pháp, chống Mỹ của
dân tộc ta. Việc đàm phán, ký kết Hiệp định đã để lại những kinh nghiệm quý báu
trong quá trình đàm phán tiếp theo tại Hiệp định Paris và những bài học kinh
nghiệm mang tính thời sự cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc trong tiễn trình hội nhập. Các bài học kinh nghiệm đó là:
2. Kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; kiên định về nguyên tắc, linh hoạt
về sách lược. Trong bỗi cảnh Hội nghị Giơ-ne-vơ được tô chức theo sáng kiến của các nước và chịu tác động của các nước lớn với những mục tiêu và lợi ích khác
nhau, song chúng ta vẫn kiên trì đường lỗi đối ngoại độc lập, tự chủ thể hiện trong
việc xác định mục tiêu, nguyên tắc đàm phân nhựng linh hoạt về sách lược và bước
đi, chúng ta phải làm tất cả những gì có thể làm để đạt được lợi ích của mình. Lợi
ích cao nhất của chúng ta lúc đó tại Hội nghị Giơ-ne-vơ là buộc đối phương phải
công nhận độc lập, chủ quyên và toàn vẹn lãnh thổ và chúng ta đã đạt được.
3. Đánh giá và xử lý đúng tình hình, những yêu câu và lợi ích của các nước có
liên quan. Trong quá trình đàm phán tại Hội nghị, nhờ sự phân tích đánh giá tình
hình chính xác, kịp thời, chúng ta đã biết nắm bắt những “thời cơ cách mạng” và
đưa ra những đường lỗi, chủ trương, chính sách đối ngoại đúng đắn, sáng suốt nên
đã đạt được những kết quả to lớn tại Hội nghị. Tuy nhiên, lúc đó, các phương tiện
truyền thông, báo chí chưa thực sự phát triển, nguồn thông tin còn hạn chế, hơn
nữa chúng ta chưa có nghiên cứu chiến lược, chưa hiểu hết ý đồ của các nước lớn,
Liên Xô và Trung Quốc nên thăng lợi của chúng ta chưa trọn vẹn.
4. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại; tranh thủ sự ủng hộ
của nhân dân thê giới, các lực lượng yêu chuộng hòa bình và công lý. Trước, trong
và sau Hội nghị Giơ-ne-vơ và trong suốt quá trình đấu tranh, giành độc lập, thống
nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, chúng ta luôn giương cao ngọn cờ đâu tranh
chính nghĩa, thái độ thiện chí của mình, vạch rõ âm mưu của địch và nhờ đó chúng
ta đã tranh thủ được sự ủng hộ của các lực lượng hòa bình dân chủ trên thế ĐIỚI,
tác động tích cực tới phong trào phản chiến của nhân dân Pháp, tạo thuận lợi cho
cuộc đầu tranh của ta tại Hội nghị giành thăng lợi.
5. Tăng cường đối thoại và hợp tác, sử dụng các biện pháp hòa bình giải quyết
các vấn đề xung đột trong quan hệ quốc tế, phù hợp với luật pháp quốc tế, giữ gìn
môi trường hòa bình. Trước tình hình thế giới đã xuất hiện xu thế các nước lớn bắt
đầu đi vào hòa hoãn, chủ trương giải quyết hòa bình các cuộc chiến tranh khu vực;
cùng với quyết định mở cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953-1954, Chủ
tịch Hồ Chí Minh cùng Đảng Lao động Việt Nam chủ trương dùng biện pháp đàm
phán hoà bình để kết thúc chiến tranh. Thiện chí hoà bình của Chính phủ và nhân
dân Việt Nam mở hướng đi tới một cuộc đàm phán để kết thúc chiến tranh. Các
nước xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa đã giải quyết hoà bình cuộc chiến tranh
Đông Dương, phá khung Chiến tranh lạnh, phá được khuôn mẫu hai phe đỗi lập
nhau.
6. lăng cường tiêm lực của đất nước, tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động đôi
ngoại, bảo vệ chủ quyên lãnh thổ, duy trì hòa bình, ổn định cùng phát triển. Chúng
ta sẽ không giành thể thắng lợi trên bàn đàm phán nếu không có thắng lợi trên
chiến trường. Trước ngày kháng chiến toàn quốc bùng nỗ, Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà đã nỗ lực cứu vãn hòa bình, dùng biện pháp ngoại giao để giải
quyết cuộc xung đột với Pháp nhưng không mang lại kết quả vì thực dân Pháp đang hăm hở giành thắng lợi bằng quân sự. Cuộc tiến công chiến lược Đông -
Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ của quân đội và nhân
dân Việt Nam thắng lợi có ý nghĩa trọng đại và tác động to lớn đến xu hướng diễn
biên và thành công của Hội nghị Giơ-ne-vơ./
* Ghi chú ảnh: Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu (ngồi bên phải), phái đoàn VNDCCH và tướng Pháp Henri Delteil, Quyền tổng Tư lệnh lực lượng Liên hiệp Pháp ở Đông Dương, phái đoàn Pháp ký Hiệp định đình chỉ chiến sự tại Việt Nam. Nguồn: TTXVN
Ban Tuyên giáo LĐLĐ tỉnh